Võ công Tiêu Dao phái Phái Tiêu Dao

Trong tiểu thuyết Thiên Long Bát Bộ, võ công của Tiêu Dao phái cực kỳ lợi hại, những người có cơ duyên học được đều trở thành cao thủ hàng đầu của truyện.

Hầu hết các môn võ này được cho là do Tiêu Dao Tử - tiền bối sáng lập phái Tiêu Dao - sáng tạo ra. Bao gồm sáu tuyệt kỹ: Bắc Minh Thần Công, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Lăng Ba Vi Bộ, Tiểu Vô Tướng Công, Thiên Trường Địa Cửu Bất Lão Trường Xuân Công.

Thiên Sơn Đồng Lão học được: Thiên Trường Địa Cửu Bất Lão Trường Xuân Công, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Ngoài ra Thiên Sơn Đồng Lão còn có môn Sinh Tử Phù. Sinh Tử Phù lấy từ Thiên Sơn Lục Dương Chưởng và cũng phải dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải.

Vô Nhai Tử học được: Bắc Minh Thần Công, Tiểu Vô Tướng Công.

Lý Thu Thủy học được: Tiểu Vô Tướng Công, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Ngoài ra Lý Thu Thủy còn có các môn võ công khác như Quy Tức Công, Truyền Âm Sưu Hồn Đại Pháp.

Các môn võ công của phái Tiêu Dao thường có những cái tên rất đẹp như: Lăng Ba Vi Bộ (bước đi trên sóng), Thiên Sơn Chiết Mai Thủ (thủ pháp hái hoa mai Thiên Sơn). Một số chiêu thức trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng như Dương Xuân Bạch Tuyết, Dương Quan Tam Điệp, Dương Ca Thiên Quân đều lấy từ tên các danh tác cổ cầm của Trung Quốc. Không chỉ có tên đẹp, võ công phái Tiêu Dao khi thi triển cũng hết sức đẹp mắt, vừa nhẹ nhàng phiêu lãng, vừa linh động phiêu bồng như huyễn mộng thiên tiên.

Khi Hư Trúc và Đinh Xuân Thu giao đấu ở Thiếu Lâm tự, quần hùng nhìn vào không hiểu hai người dùng loại võ công quái lạ gì, chỉ thấy một bên đồng nhan bạch phát, như thể thần tiên, một bên tay áo phất phơ, đi mây về gió. Hai bên cứ vừa chạm vào nhau thì lại ngay tức thì giãn cách, chẳng khác gì một đôi bướm đang nô đùa chao liệng giữa ngàn hoa, chiến mà như không chiến. Ấy vậy mà lực sát thương ẩn dưới ống tay áo phiêu dật, tưởng chừng như đang đuổi bướm vờn hoa ấy lại có thể khiến lòng người kinh tâm động phách, lại như bức bách thiên địa phải xoay chuyển càn khôn…

Bên cạnh võ công, đệ tử Tiêu Dao còn là những bậc thầy trong các nghề thủ công, nghệ thuật và biết vận dụng những kỹ năng này vào chiến đấu. Chẳng hạn Ngô Lãnh Quân biết dùng bút vẽ tấn công, Khang Quảng Lăng dùng chỉ cách không để gảy đàn nhưng cũng gây sát thương, thậm chí Cẩu Độc còn có thể dùng lời nói lý luận mà làm cho đối thủ rối loạn. Tuy nhiên kỹ năng nổi bật nhất là điều chế dược liệu. Đinh Xuân Thu có bản lĩnh chế độc hàng đầu. Y có một báu vật gọi là Thần Mộc Vương Đỉnh làm từ gỗ cây ngô đồng để thu hút các loại độc trùng như băng tằm, rắn rết. Y hút độc của các loài vật này để luyện công nên trong chưởng cũng mang chất độc. Đinh Xuân Thu còn nổi tiếng với món độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, khiến bất cứ ai trúng phải đều cười ba lần trước khi chết. Lý Thu Thủy thì có loại thuốc độc Hủ Cân Đoạn Cốt Hoàn, làm cho địch nhân đứt hết gân cốt rồi chết trong đau đớn.

Bên cạnh dùng độc, Tiêu Dao phái cũng biết dùng y thuật, dược liệu để cứu người. Thần y Tiết Mộ Hoa, người được xưng tụng là Diêm Vương Địch, đã cứu sống A Châu khi nàng đang hấp hối. Hư Trúc nhờ học được các y thuật của Linh Thứu cung mà có thể nối lại mắt cho A Tử. Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy còn có thuốc Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn chuyên trị kim sang ngoại thương, hoàn hồn tục mệnh, linh nghiệm không gì sánh kịp.

Bắc Minh Thần Công

Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: "Ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không nhìn thấy cá bao giờ". Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn.

- Yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải

Bắc Minh Thần Công là một trong những môn võ hàng đầu của phái Tiêu Dao với nội dung chủ yếu là lấy nội lực của người khác làm của mình. Bí tịch Bắc minh thần công gồm 36 trang vẽ hình các cô gái khỏa thân, hình nào cũng có một sợi chỉ màu chạy trên thân hình chỉ rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công. Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, nên ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Khi tu luyện Bắc Minh Thần Công cần đề phòng hút nội lực của kẻ mạnh hơn mình, đồng thời phải quên hết những võ công đã học, nếu không sẽ có quá nhiều loại nội công dị chủng hoành hành trong cơ thể.

Có ba người học được bộ võ công này là Vô Nhai Tử, Đoàn Dự, Hư Trúc. Trong đó, chỉ có Vô Nhai Tử là học xong toàn bộ. Hư Trúc chỉ học được cách vận khí từ Thiên Sơn Đồng Lão nhằm giúp bà ta đối phó với đám người trong 36 động, 72 đảo. Dưới hầm băng Tây Hạ, khi Hư Trúc phạm sắc giới định tự tử bằng cách lao đầu vào tường, nhờ có Bắc Minh chân khí hộ thể nên không chết. Đoàn Dự, một nhân vật chính khác trong Thiên Long Bát Bộ, cũng có duyên nhận được bộ võ công này nhưng lại chỉ học trang đầu tiên. Trong khi Đinh Xuân Thu dành cả đời tìm kiếm Bắc Minh Thần Công ở Tinh Túc Hải, y không ngờ nó lại được giấu trong tấm bồ đàn ngay trước bước tượng ngọc bích của cô gái mà Vô Nhai Tử yêu khi xưa. Đoàn Dự trong một lần dạo chơi ở Vô Lượng sơn đã vô tình nhận được hai quyển mật tịch này khi làm một chuyện tưởng như điên rồ là rập đầu trước tấm bồ đàn 1000 cái để tấm bồ đàn rách ra và lộ hai quyển bí tịch. Thành tựu của Đoàn Dự không nổi bật ngoại trừ khả năng hút nội lực của người khác. Nhờ hút được công lực của nhiều cao thủ, trong đó có Cưu Ma Trí mà nội công của Đoàn Dự cũng trở nên thâm hậu.

Hóa Công Đại Pháp là một môn nội công được sáng tạo bởi Đinh Xuân Thu dựa theo Bắc Minh Thần Công. Cả hai có cùng mục đích là làm suy yếu nội lực của đối thủ, nhưng Bắc Minh Thần Công có thể đem nội lực của đối phương để cho bản thân sử dụng, trong khi nguyên lý của Hóa Công Đại Pháp lại là hút chất độc từ các loài độc vật vào rồi đánh vào cơ thể để tán hóa nội công của đối thủ. Bộ võ công này khuyết điểm là phải hút chất độc hằng ngày và cần dùng Thần Mộc Vương Đỉnh để luyện công. Đây cũng là nguyên nhân khi A Tử đánh cắp Thần Mộc Vương Đỉnh, Đinh Xuân Thu phải từ Tinh Túc hải trở về Trung Nguyên để truy tìm.

Lăng Ba Vi Bộ

Đây thực chất không phải là một công phu riêng lẻ mà là một trang cuối cùng trong bí tịch Bắc Minh Thần Công. Cái tên Lăng Ba Vi Bộ có nghĩa là "nhẹ nhàng đạp sóng", lấy từ một câu trong bài "Lạc thần phú" (bài phú về nữ thần sông Lạc) của Tào Thực thời Tam Quốc. Đây là một loại bộ pháp, hướng dẫn cách di chuyển dựa trên phương vị 64 quẻ của Kinh dịch. Kinh dịch biến ảo khôn lường, cho nên Lăng ba vi bộ cũng bách biến đa dạng, một khi thi triển thì không ai có thể nắm bắt. Do đó nó được mệnh danh là đệ nhất khinh công trong thiên hạ. Đoàn Dự nhờ học được Lăng Ba Vi Bộ nên dù võ công kém cỏi nhưng gặp lúc hung hiểm vẫn có thể dễ dàng thoát thân.

Thiên Trường Địa Cửu Bất Lão Trường Xuân Công (Bát Hoang Lục Hợp Duy Ngã Độc Tôn Công)

Là võ công mà Thiên Sơn Đồng Lão được chân truyền từ sư phụ. Bản chất của công phu này là cải lão hoàn đồng, làm cho cơ thể trẻ lại còn nội công thì tăng tiến. Người luyện Trường Xuân công mỗi 30 năm phải tiến hành cải lão một lần, mỗi lần lại mất thêm 30 ngày. Trong thời gian đó cơ thể sẽ tạm thời mất hết võ công, mỗi ngày đều phải uống máu tươi để điều hòa kinh mạch. Thiên Sơn Đồng Lão luyện môn võ này từ năm 6 tuổi. Năm 26 tuổi khi bà tu luyện có chút thành tựu thì bị Lý Thu Thủy phá ngang, khiến tẩu hỏa nhập ma, cơ thể không phát triển được nữa. Vào thời điểm các sự kiện của Thiên Long Bát Bộ diễn ra, Thiên Sơn Đồng Lão đã 96 tuổi, cải lão hoàn đồng cần 90 ngày. Chính trong thời gian này mà Lý Thu Thủy nhân cơ hội tìm tới Thiên Sơn trả thù. Thiên Sơn Đồng Lão và Hư Trúc phải trốn vào hầm băng trong hoàng cung Tây Hạ, lại bắt các loại trân cầm dị thú trong ngự hoa viên uống máu luyện công. Chẳng may Thiên Sơn Đồng Lão bị Lý Thu Thủy khiêu khích dẫn đến tung tích bại lộ. Mặc dù chưa luyện thành thần công, cơ thể lại mang thương tích, nhưng Thiên Sơn Đồng Lão vẫn đánh ngang ngửa với Lý Thu Thủy.

Tiểu Vô Tướng Công

Đây là môn võ công mà sư phụ chỉ chân truyền cho một mình Lý Thu Thủy. Nhưng qua tình tiết truyện thì có thể thấy Lý Thu Thủy đã truyền lại công phu này cho sư huynh của mình là Vô Nhai Tử (vì mối quan hệ thân thiết giữa hai người).

"Tiểu Vô Tướng Công" nghĩa là "môn công phu không có hình hài". Nếu luyện công phu này, chỉ cần biết gia số chiêu thức thì có thể dựa vào nội công của Tiểu Vô Tướng Công để thi triển bất cứ tuyệt học nào. Tiểu Vô Tướng Công mặc dù là Đạo giáo võ học nhưng có đặc điểm là dựa vào thuyết "vô sắc vô tướng" của Phật giáo. Đây là thần công phòng thân của Lý Thu Thủy. Năm xưa mấy lần bị Thiên Sơn Ðồng Lão gia hại, Lý Thu Thủy đều dùng Tiểu Vô Tướng công bảo trì được tính mạng. Cưu Ma Trí sau đó cũng học được Tiểu Vô Tướng Công. Y đến Thiếu Lâm Tự thách thức rằng mình đã học được hết 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, thực chất chỉ là dùng Tiểu Vô Tướng Công thi triển mà thôi.

Sinh Tử Phù và Thiên Sơn Lục Dương Chưởng

Sinh Tử Phù là võ công đặc dị do Thiên Sơn Đồng Lão sáng chế. Đây là một loại ám khí, nhưng không phải làm từ gỗ hay kim loại mà là dùng nội lực hóa hơi nước thành băng rồi phong ấn vào cơ thể địch nhân. Khi bị trúng Sinh Tử Phù thì cơ thể sẽ ngứa ngáy đến không thể chịu nổi. Nếu không dùng thuốc giải đặc chế của Linh Thứu cung thì sẽ vật vã khổ sở, muốn sống không được, chết cũng không xong. Tuy nhiên thuốc giải cũng chỉ là tạm thời. Để hóa giải hoàn toàn Sinh Tử Phù cần Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, vốn là công phu chí dương. Trong mỗi Sinh Tử Phù có bao nhiêu phần âm bao nhiêu phần dương, lại nằm trong huyệt đạo nào thì chỉ có người gieo mới nắm rõ. Lúc bấy giờ mới dùng nội lực của Thiên Sơn Lục Dương Chưởng cân bằng lại rồi hút Sinh Tử Phù ra ngoài.

Chính nhờ Sinh Tử Phù này mà Thiên Sơn Đồng Lão đã chi phối 36 động, 72 đảo. Mỗi năm, người của cung Linh Thứu sẽ đi phát thuốc giải một lần, đi đến đâu cũng hách dịch ra yêu sách. Bọn người của 36 động, 72 đảo tuy căm phẫn vì bị ức hiếp nhưng vẫn không dám phản kháng vì như thế vẫn tốt hơn là bị Sinh Tử Phù hành hạ. Sinh Tử Phù còn được Hư Trúc sử dụng để đánh bại Đinh Xuân Thu, thanh lý môn hộ. Mối thù của Vô Nhai Tử được trả bằng một công phu của Thiên Sơn Đồng Lão, ân tình bao nhiêu năm giữa hai người đến lúc chết vẫn chưa dứt.

Thiên Sơn Lục Dương Chưởng tổng cộng có sáu thức, nhưng trong Thiên Long Bát Bộ chỉ đề cập đến tên của 3 thức được Hư Trúc sử dụng để bảo hộ Thiên Sơn Đồng Lão khỏi chưởng lực của Lý Thu Thủy. Ba thức đó bao gồm:

  • Dương Ca Thiên Quân (陽歌天鈞)
  • Dương Xuân Bạch Tuyết (陽春白雪): lấy từ tên của một trong thập đại danh tác cổ cầm Trung Quốc. Đây nổi tiếng là một cầm phổ khó chơi. Dương Xuân Bạch Tuyết dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa xuân sang, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao mùa vẫn còn cái hơi lạnh của mùa đông nhưng đã có cái ấm áp của mùa xuân. Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, nhẹ nhàng như nước chảy bên tai, làm người nghe quên cả trời đất, cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái.[4]
  • Dương Quan Tam Điệp (陽關三疊): Dương Quan là một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên nhị sứ An Tây" của Vương Duy là một bài thơ tiễn biệt rất đặc sắc. Vua Đường Huyền Tông lấy vào Nhạc phủ, phổ thành một bài hát gọi là "Dương Quan tam điệp" (ba nhịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn biệt nhau. 

Thiên Sơn Chiết Mai Thủ

Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là một môn võ công của phái Tiêu Dao. Thiên Sơn Chiết Mai Thủ có ba đường chưởng pháp và ba lộ cầm nã thủ, tuy chỉ có sáu đường nhưng bao hàm tinh nghĩa của phái Tiêu Dao. Trong chưởng pháp và cầm nã thủ có ẩn giấu cả kiếm pháp, đao pháp, tiên pháp, thương pháp, trảo pháp, thủ pháp các tuyệt chiêu của mọi loại binh khí, biến hóa rất phức tạp.